Phương Anh, phóng viên đài RFA
Đã
từ lâu, ban Việt Ngữ Đài chúng tôi đã có nhiều bài tường trình về vấn
đề tình trạng tồi tệ của các cô dâu Đài Loan, cũng như chuyện các nhân
công người Việt bị hành hạ, đối xử tệ bạc ở các nước Malaysia, Hàn Quốc,
Đài Loan…
Vào
tháng 6 năm 2005, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã đưa ra báo cáo rằng Việt Nam
là một trong những nước cần chú ý vì có tình trạng buôn bán phụ nữ và
trẻ em Việt Nam sang Trung Quốc, Hongkong, Macao, Malaysia, Đài Loan và
Cộng Hoà Czech để làm công việc mại dâm. Cũng trong năm vừa qua, đã có
rất nhiều hội nghị quốc tế được tổ chức ở Đài Loan cùng những cam kết
của các quốc gia trong vùng sông Mêkông để tìm cách ngăn chận nạn buôn
bán phụ nữ và trẻ em Việt Nam.
Nhiều
cơ quan quốc tế như International Labor Organization (ILO), USAID,
IOM…và ngay cả Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, cũng hỗ trợ các ngân khoản cho Việt
Nam nhằm ngăn chận tệ nạn này. Trong thời gian gần đây, chính phủ Việt
Nam đã có nhiều nỗ lực hơn, cụ thể là có cả một chương trình quốc gia để
chống nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em.
Để
tìm hiểu thêm về việc buôn bán phụ nữ và trẻ em Việt Nam, Phương Anh đã
liên lạc với các cơ quan và tổ chức đã và hiện đang rất quan tâm đến
vấn đề này và gửi tới quí vị các chi tiết liên quan. Kỳ này, Phương Anh
mời quí vị nghe nguyên nhân và bản chất của chuyện buôn bán phụ nữ và
trẻ em Việt Nam ra nước ngoài
Ngày càng phát triển
Theo
lời của tiến sĩ Lê Bạch Dương, hiện là Giám đốc Viện Nghiên Cứu Phát
Triển Xã Hội ở Hà Nội, thì ở Việt Nam, chuyện buôn bán phụ nữ và trẻ em
đã xảy ra từ cuối những năm 80, nhưng việc này chỉ xảy ra rất lẻ tẻ ở
một vài nơi mà thôi.
Nguyên
nhân của nó thật dễ hiểu vì sự mở cửa biên giới, sự hội nhập kinh tế,
buôn bán dọc theo biên giới Việt Nam và Trung Quốc, có rất nhiều chợ
biên giới và những chợ biên giới đó có rất nhiều đội ngũ di cư từ Việt
Nam sang để làm cửu vạn, khuân hàng, chuyển hàng…Có những dịch vụ vui
chơi, giải trí cho những người Việt Nam sang bên đó và cho cả những
người địa phương Trung Quốc nữa.
Nhưng
càng ngày càng phát triển, nhất là vào những năm 90 trở đi cho đến bây
giờ thì đã trở thành vấn đề rất lớn, chuyện buôn bán phụ nữ, trẻ em
không chỉ dừng ở trong nước mà còn ra cả nước ngoài. Nguyên nhân vì sao
tệ trạng này lại phát triển rầm rộ như thế? Ông nói:
“Nguyên
nhân của nó thật dễ hiểu vì sự mở cửa biên giới, sự hội nhập kinh tế,
buôn bán dọc theo biên giới Việt Nam và Trung Quốc, có rất nhiều chợ
biên giới và những chợ biên giới đó có rất nhiều đội ngũ di cư từ Việt
Nam sang để làm cửu vạn, khuân hàng, chuyển hàng…Có những dịch vụ vui
chơi, giải trí cho những người Việt Nam sang bên đó và cho cả những
người địa phương Trung Quốc nữa.
Đó
chính là đầu đến của những việc buôn bán phụ nữ và trẻ em từ Việt Nam
sang Trung Quốc. Và cũng tương tự như vậy ở Campuchia, ở những tỉnh dọc
theo biên giới, sau đó chuyển thẳng về Nông Pênh, rồi từ Nông Pênh lại
đi tiếp sang Thái Lan, hay cũng có những đường dây chuyển trực tiếp phụ
nữ và trẻ em từ miền Nam Việt Nam sang Malaysia, Hongkong, Singapore,
Đài Loan, v…v…”
Khi hỏi về vấn đề phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan, ông cho hay: “Vấn
đề lấy chồng Đài Loan nổ rộ vào những năm 2000 cho tới bây giờ. Hiện
nay, thị trường không còn ở Đài Loan nữa mà các cô dâu Việt Nam sang tận
cả Hàn Quốc. Khi tôi sang Singapore, có những phố mà phụ nữ Việt Nam
làm mãi dâm ở Singapore một cách công khai. Ở nhiều nơi công cộng có
những tấm biển quảng cáo lấy vợ Việt Nam cho người Singapore với giá 10
ngàn, 12 ngàn Mỹ kim…
Nhưng
vào thời điểm này, thì phụ nữ Việt Nam chủ yếu lấy chồng Đài Loan. Phụ
nữ Việt Nam từ các tỉnh phiá Bắc, thì lấy chồng ở các tỉnh miền Nam
Trung Quốc và đa phần là “illegal”, không có license đàng hoàng…Nhưng
Đài Loan thì hầu hết là đi theo con đường hợp pháp và có rất nhiều mạng
lưới, hoặc là tư nhân, hoặc là do quen biết đứng ra làm dịch vụ môi giới
lấy chồng Đài Loan…
Nếu
tôi nhớ khhông lầm, con số cho đến nay lên đến 90 ngàn cô dâu Đài Loan.
Hiện nay, cũng thật khó kết luận vấn đề phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài
Loan gắn với trafficking. Lý do vì họ đi hợp pháp, cũng đăng ký kết hôn
đàng hoàng, cũng sống và hoà nhập vào cộng đồng. Tất nhiên, cũng xảy ra
một số trường hợp như không được như ý, bị gia đình nhà chồng đối xử
không tốt, thậm chí có một số trường hợp bị bán vào mãi dâm.
Tôi
không kết luận vấn đề trafficking gắn với việc phụ nữ Việt Nam sang lấy
chồng Đài Loan. Trong bối cảnh thiếu sự giám sát, sự phối hợp giữa Đài
Loan và Việt Nam, giám sát các hoạt động môi giới, cò mồi…nên ở đây, nó
đã mở ra một mảnh đất màu mỡ cho việc buôn bán phụ nữ Việt Nam giả danh
lấy chồng Đài Loan, nhưng cuối cùng để làm trong những khu vực khác…”
Cần phải minh định lại vấn đề
Theo
ý kiến của tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc Ủy Ban Cứu Người Vượt
Biển- Boat People SOS, một tổ chức đã từng cứu giúp cho hàng trăm công
nhân Việt Nam bị lừa đảo sang America Samoa, thì cho rằng cần phải minh
định lại vấn đề các cô dâu Đài Loan. Ông nói: Chúng
tôi quan tâm đến những tình trạng ở Đài Loan cách đây khoảng 4 năm, khi
một số những người Việt bị đánh đập và áp chế, tương tự như tình trạng ở
America Samoa. Sau đó, chúng tôi thường xuyên liên lạc với các tổ chức
của người Đài Loan, họ cũng can thiệp và tranh đấu cho những công nhân
và những cô dâu có thể bị rơi vào tình trạng buôn người.
Chúng
tôi có tiếp xúc với một số cô dâu Đài Loan, thì nhận thấy có nhiều vấn
đề, và dựa theo sự hiểu biết về luật pháp, cũng như sự tiếp xúc với các
tổ chức của Đài Loan, sự tường trình của chính các cô dâu, thì hoá ra,
từ trước đến nay, trong cộng đồng chúng ta thường được nghe là buôn
người, nhưng không phải thế mà là bị bạo hành trong gia đình.
Tháng
12 vừa qua, chúng tôi đã đi sang Đài Loan để tham dự hội nghị quốc tế
do một số tổ chức tư nhân đứng ra tổ chức, phối hợp với một tổ chức tại
Hoa Kỳ là Vital Voices, trước kia trực thuộc Bộ Ngoại Giao HK…
Sau
đó, chúng tôi có tiếp xúc với một số cô dâu Đài Loan, thì nhận thấy có
nhiều vấn đề, và dựa theo sự hiểu biết về luật pháp, cũng như sự tiếp
xúc với các tổ chức của Đài Loan, sự tường trình của chính các cô dâu,
thì hoá ra, từ trước đến nay, trong cộng đồng chúng ta thường được nghe
là buôn người, nhưng không phải thế mà là bị bạo hành trong gia đình.
Có
trường hợp cô dâu bị đánh đập và bỏ vào thùng rác, rất thương tâm,
nhưng đó không phải gọi là buôn người được, mà đó là bạo hành trong gia
đình. Chúng ta phải có những cách tương ứng để đối phó với tình trạng
này. Buôn người có nghĩa là bị đưa sang một cái vùng mà họ không thể
trốn tránh được, để rồi họ bị ép làm lao động khổ sai, hay họ bị lợi
dụng về vấn đề tình dục.
Chúng
tôi để ý thấy chính phủ Đài Loan là một quốc gia có nền dân chủ dân
lập, mới chỉ được hai năm, họ rất quan tâm đến vấn đề nhân quyền, những
giá trị nhân bản, họ có những khoản tài trợ chống buôn người cho các tổ
chức của người Đài Loan và cho cả người Việt Nam nếu thành lập các tổ
chức để bảo vệ cho nhau.
Trong
những năm gần đây, tình trạng buôn người ở Đài Loan giảm đi rất nhiều
mà phần lớn còn lại là tình trạng bạo hành trong gia đình mà thôi.
Riêng
khoảng 100 ngàn công nhân thì có khoảng 20 ngàn đã bỏ trốn đi tìm những
công việc có thu nhập cao hơn, họ phá hợp đồng và hiện nay đang sống
ngoài vòng pháp luật với hy vọng tìm một nguồn thu nhập khá hơn để sớm
giúp cho gia đình.
Họ
cũng không thể gọi là tình trạng buôn người vì họ có khả năng dễ dàng
trốn khỏi chủ nhân của họ. Chúng ta cũng phải giúp cho họ nhưng không
thể áp dụng nhãn hiệu là buôn người cho họ được. “
Tự nguyện hay bị buôn bán
Một
quản lý viên của một trung tâm du lịch ở Đài Loan, xin được dấu tên,
thường xuyên có cơ hội gặp các phụ nữ đang làm việc trong các quán bar,
hộp đêm, hay các cô dâu Đài Loan, thì cho rằng:
Người
môi giới chỉ không nói rõ là đi tiếp khách như thế nào, mà chỉ nói là
qua đây đi rót rượu chung với khách thôi, “đi” hay không “đi” là quyền
các cô… Nhưng khi họ qua đây thì họ bị ép đi tiếp khách, một ngày năm
sáu người, có khách bao nhiêu thì phải đi bấy nhiêu, một ngày, họ bị ép
đi ngủ với khách không giới hạn…Chính vì thế, họ không chịu nổi và tìm
cách trốn đi…
“Theo
tôi nghĩ, đa số họ tự nguyện qua, tôi nghe nói là bị buôn bán nhưng tôi
đã gặp những trường hợp đó thì là họ tự nguyện thôi…Khi họ đồng ý qua
đây, họ biết trước người chồng này là như vậy...Một số những chị em đó ở
Việt Nam khổ quá nên muốn kiếm con đường đó qua đây để đi làm kiếm
tiền.
Có
những người, muốn đi làm trong các bar rượu, trước khi đi, thì họ chỉ
không được biết là một ngày phải tiếp bao nhiêu khách, nên khi qua đây,
phải tiếp nhiều khách quá nên đâm ra họ chịu không nổi, phải trốn ra
ngoài, và nói là bị bán qua đây, nhưng thực tế, khi chúng tôi đến giúp,
hỏi riêng họ, thì họ cho hay là họ đã biết là đi làm trong quán rượu và
họ đồng ý.
Người
môi giới chỉ không nói rõ là đi tiếp khách như thế nào, mà chỉ nói là
qua đây đi rót rượu chung với khách thôi, “đi” hay không “đi” là quyền
các cô… Nhưng khi họ qua đây thì họ bị ép đi tiếp khách, một ngày năm
sáu người, có khách bao nhiêu thì phải đi bấy nhiêu, một ngày, họ bị ép
đi ngủ với khách không giới hạn…Chính vì thế, họ không chịu nổi và tìm
cách trốn đi…
Những người đó muốn giúp thì phải liên lạc và báo cho cảnh sát, chứ không thể nào tự động can thiệp cho họ được.”
Nguyên nhân chính
Về
tình trạng ở trong Nam, nhất là những vùng biên giới sát Cambodia, ông
John Anner, hiện là giám đốc của tổ chức East Meets West Foundation, trụ
sở ở bang California, nhận định:
“Tình
trạng buôn người hiện nay là vấn đề rất lớn. Tôi biết được điều này khi
làm việc chung với tổ chức của người Mỹ gốc Việt đang cố gắng ngăn chận
tệ nạn này. Tôi đã đến Việt Nam rất nhiều lần và gặp những phụ nữ trở
về sau khi bị bán sang Cambodia. Tình trạng buôn người ở miền Nam Việt
Nam cũng giống như ở bên Campuchia vậy.
Có
3 tỉnh đang xảy ra chuyện buôn người nhiều nhất là: Đồng Tháp, An Giang
và Kiên Giang, là nhữn tỉnh nằm sát biên giới Cambodia. Những người phụ
nữ trẻ này bị bán hay bị lừa sang Cambodia để làm công việc mại dâm,
hầu hết ở ngay tại Cambodia. Họ không phải là những cô gái mãi dâm, họ
bị bắt buộc phải tiếp khách, không được trả tiền…” Phương Anh cũng liên
lạc với bà Nguyễn Vân Anh, là giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học về
Giới, Gia Đình, Phụ Nữ và Vị Thành Niên, để hỏi ý kiến về tình trạng
buôn bán phụ nữ và trẻ em Việt Nam. Bà nói:
“Tôi
nghĩ nguyên nhân thứ nhất là đói nghèo, thiếu việc làm. Tình trạng đói
nghèo và thiếu việc làm ở nông thôn làm cho bỏ ra thành thị và đi nước
ngoài kiếm sống và kỳ vọng vào những nơi làm ăn xa mà nghĩ là dễ kiếm
được cái khoản tiền kha khá vì thế mà họ dễ bị lừa.
Thứ
hai nữa là truyền thông đại chúng của Việt Nam, bề rộng thì rất nhiều,
nhưng đi vào bề sâu, thí dụ như đi đến các cộng đồng nhỏ bé cụ thể ở các
làng quê để cho người ta biết được những thủ đoạn của bọn buôn người và
những điều cảnh giác cần biết khi phụ nữ phải đi làm ăn xa thì rất ít.
Tôi
nghĩ nguyên nhân thứ nhất là đói nghèo, thiếu việc làm. Tình trạng đói
nghèo và thiếu việc làm ở nông thôn làm cho bỏ ra thành thị và đi nước
ngoài kiếm sống và kỳ vọng vào những nơi làm ăn xa mà nghĩ là dễ kiếm
được cái khoản tiền kha khá vì thế mà họ dễ bị lừa.
Cho
nên, truyền thông rất nhiều, nhưng họ vẫn cứ là nạn nhân của tình trạng
buôn người. Ở phiá Nam, họ nghĩ là việc làm dâu ở xứ người sẽ đổi đời
cho nên họ sẵn sàng đi lấy chồng ở những nước mà đôi khi chẳng biết mặt
chú rể là ai mà chỉ thông qua một môi giới…
Thỉnh
thoảng cũng có một số người lấy được chồng nước ngoài một cách thành
thực, nhưng cũng có một số người sẽ rơi vào tay bọn buôn người, không
phải đi lấy chồng mà bị bán vào các nhà chưá và phải làm gái mại dâm…”
Vừa
rồi là ý kiến của đại diện một số tổ chức rất quan tâm đến vấn đề buôn
bán phụ nữ và trẻ em Việt Nam về nguyên nhân và bản chất của tệ nạn này.
Phương Anh xin dừng nơi đây, mời quí vị đón nghe kỳ sau với các hoạt
động của các tổ chức hiện đang có mặt tại các nước trong vùng sông
Mêkông và ở châu Âu trong việc nỗ lực giúp đỡ các nạn nhân của bọn
người.
Theo dòng câu chuyện
- Làm thế nào để ngăn chận nạn buôn người ở Việt Nam?
- Tình trạng của các nạn nhân ở một số quốc gia
No comments:
Post a Comment